Mục Lục
PHẨM THỨ NHẤT : DUYÊN KHỞI
PHẨM THỨ HAI : MƯỜI TÂM THÙ THẮNG
PHẨM THỨ BA : NIỆM PHẬT CÔNG ĐỨC
PHẨM THỨ TƯ : XƯNG TÁN DANH HIỆU
PHẨM THỨ NĂM : QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT NIỆM PHẬT VIÊN THÔNG
PHẨM THỨ SÁU : NĂNG LỰC BẤT TƯ NGHỊ CỦA DANH HIỆU PHẬT
PHẨM THỨ BẢY : KHUYẾN PHÁT NIỆM PHẬT VÀ ĐỌC TỤNG CHƠN NGÔN
Phẩm Thứ Ba: NIỆM PHẬT CÔNG ĐỨC
Lúc bấy giờ, ngài Phổ-hiền Bồ-tát liền nhập Nhứt Thiết Phật Độ Thể Tánh Tam Muội, tất cả Bồ-tát và đại chúng đều thấy thân mình ở trong thân của Phổ-hiền Bồ-tát. Lại thấy rõ cõi nước Cực-lạc vô lượng vô biên sự trang nghiêm, và tự nhiên thấy mình đang trụ trong cảnh giới vi diệu thù thắng ấy. Thấy đức A-di-đà đang ngự trước mặt mình. Thân tướng của đức A-di-đà cao lớn khôn cùng, hình dáng ngời sáng chói sắc vàng diêm-phù-đàn. Lông trắng chặng giữa chân mày thì uyển chuyển xoáy tròn về bên hữu, như năm ngọn núi Tu-di. Đôi mắt trắng và xanh biếc như bốn biển lớn. Các lỗ chân lông nơi thân đều phóng hào quang sáng sạch, chiếu soi muôn nghìn cõi nước ở khắp mười phương. Mỗi mỗi hào quang thường che chở, và nhiếp thọ những chúng sanh niệm Phật.
Lại thấy toàn cõi Cực-lạc hiện trong thân mình, mặt đất bằng lưu ly trong suốt, rạng rỡ. Bảo thọ, bảo đài, liên trì, bảo lâu, bảo tòa... mỗi mỗi nghiêm sức bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, trân châu, mã não. Chư thượng thiện nhân đều do hoa sen hóa sanh, ai nấy đầy đủ ba mươi hai tướng hảo, thọ dụng y thực tự nhiên thuần pháp hỷ thực và thiền duyệt thực. Tất cả đều ngồi trên tòa báu lắng nghe đức Phật cùng Bồ-tát thuyết pháp. Những sự việc trang nghiêm bất khả tư nghị như vậy, dẫu đến ức kiếp kể cũng không cùng tận.
Hiện thần lực như thế rồi, ngài Phổ-hiền bèn ra khỏi Nhứt Thiết Phật Độ Thể Tánh Tam Muội, làm cho đại chúng trở lại như cũ.
Bấy giờ đại chúng được thấy sự chưa từng có, cho là rất đặc biệt lạ lùng, ngồi yên lặng nhất tâm chiêm ngưỡng. Lúc ấy, Quốc mẫu Vi-đề-hy hoàng thái hậu chấp tay bạch rằng:
- “Thưa Đại-sĩ, nay Tam-muội nầy thật vô cùng hi hữu, có uy lực lớn, có công năng bất tư nghị, vậy tên gọi của Tam-muội ấy là gì?”
Phổ-Hiền Bồ-tát nói:
- “Tam-muội nầy gọi là Nhứt Thiết Phật Độ Thể Tánh còn gọi là Niệm Phật Tam Muội. Do công đức xưng niệm danh hiệu Phật tạo thành, hoặc là kết quả tự nhiên của mười tâm thù thắng.
Nầy Phật tử, nay tôi nương thần lực và lòng đại bi vô hạn lượng của đức Phật Thích-ca Mâu-ni, mà tuyên thuyết Công Đức Bất Khả Xưng Tán của sự chấp trì danh hiệu Phật.
Mười thứ tâm thù thắng ấy, thật ra vừa là nhân vừa là quả. Nhân cùng quả thì không bao giờ rời nhau. Người tu môn niệm Phật thì phải đề khởi mười thứ tâm thù thắng, mới nhanh chóng thâm nhập Niệm Phật Tam-muội, hiện bày cảnh giới Cực-lạc. Hoặc ngược lại, người đặt trọn tín tâm nơi Bản-nguyện và cả đời chuyên nhất xưng niệm danh hiệu Phật, thì dần dần đi vào Niệm Phật Tam-muội, tự nhiên thành tựu mười thứ tâm thù thắng nói trên.
Tại sao vậy?
Nầy Phật tử hãy chăm chú lắng nghe, tôi sẽ giải thích tường tận.
Danh hiệu Nam-mô A-di-đà Phật vốn đầy đủ vô lượng vô biên hằng hà sa công đức, vô lượng vô biên hằng hà sa ý nghĩa, vô lượng vô biên hằng hà sa lực dụng, cứu cánh, cảnh giới, giác tánh... dẫu trăm ngàn muôn ức na-do-tha vi trần đại kiếp, cũng không thể diễn nói hết được. Nay vì chúng sanh nơi thời kỳ Chánh pháp cuối cùng, mà tôi sẽ lược nói, để chúng sanh thu hoạch nhiều lợi ích.
Nầy Phật tử! Nam-mô A-di-đà Phật nghĩa là gì?
Nam-mô là thủy giác. A-di-đà là tương tục giác, Phật là bản giác.
Nam-mô là năng niệm, A-di-đà là tương tục niệm, Phật là sở niệm.
Nam-mô là giới luật, A-di-đà là thiền định, Phật là trí tuệ.
Nam-mô là thế gian giới, A-di-đà là pháp giới, Phật là vô sai biệt giới, vô sở hữu cảnh giới, vô trụ xứ cảnh giới.
Nam-mô là thường, A-di-đà là tịch, Phật là quang.
Nam-mô là diệu quan sát trí, A-di-đà là bình đẳng tánh trí, Phật là đại viên cảnh trí, vô tận sở hữu trí.
Nam-mô là phi hữu, A-di-đà là phi vô, Phật là không tánh, phi hữu vô định tánh.
Nam-mô là như thực hữu, A-di-đà là như thực không, Phật là như thực bất không.
Nam-mô là sai biệt trí, A-di-đà là vô sai biệt trí, và Phật là pháp hải tuệ công đức vô tận tạng viên mãn trí.
Nam-mô là phương tiện lực, A-di-đà là cứu cánh lực, và Phật là dung thông phương tiện siêu việt cứu cánh lực.
Nam-mô là ly trần, A-di-đà là ly căn, Phật là ly thức.
Nam-mô là chuyển y tạng, A-di-đà là vô tận thiện căn tạng, Phật là quyết định chính giác tạng.
Nam-mô là ly cẩn tạng, A-di-đà là niết bàn tạng, Phật là như huyễn giải thoát tạng.
Nam-mô là trang nghiêm Phật quốc độ, A-di-đà là thành tựu vô biên Phật quốc độ, Phật là như huyễn thập phương Hoa Tạng Thế Giới Hải.
Nam-mô là gia trì lực, A-di-đà là tiếp dẫn lực, Phật là tự tánh tương ưng nhiếp thọ lực.
Nam-mô là khai thị vô lượng trí, A-di-đà là thâm nhập chính giác trí, Phật là quang minh phổ chiếu trí.
Nam-mô là thế gian giải, A-di-đà là giác ngộ giải, Phật là nhất thiết trí biến chiếu thập phương viên mãn giải.
Nầy Phật tử, danh hiệu Nam-mô A-di-đà Phật có vô lượng vô biên bất khả thuyết ý nghĩa thâm mật vi diệu như thế, dẫu ba đời mười phương chư Phật diễn nói cũng không cùng tận.
Lại nữa, không thể chấp trước nơi ngữ ngôn, văn tự, âm thanh, tri kiến, biện luận... mà bảo rằng danh hiệu Nam-mô A-di-đà là hữu niệm hoặc vô niệm. Vì sao vậy? Bởi vì danh hiệu ấy chính là không tánh, là vô sở đắc, là vô sở ý, vô cấu nhiễm, là vô sở tương ưng, là vô sở bội nghịch, vô công dụng hạnh, là vô sở cầu hạnh.
Lại nữa, không thể chấp trước nơi hình thái tu tập, chỗ dụng công, hoặc phương tiện biểu hiện, qui tắc hành trì, mà cho rằng danh hiệu ấy là hữu định tánh hay vô định tính. Vì sao vậy? Bởi vì danh hiệu Nam-mô A-di-đà Phật chính là vô tận tạng, hư không tạng, Đà-ra-ni tạng, giải thâm-mật cụ-túc tạng...
Lại nữa, không thể chấp trước vào ý nguyện vãng sanh, tâm thái mong cầu Phật lực, hoặc an trú bản nguyện lực, hay sự phát tâm bồ đề quảng đại... mà cho rằng danh hiệu Nam-mô A-di-đà Phật là hữu thú hướng hoặc vô thú hướng. Vì sao vậy? Bởi vì danh hiệu ấy, chính là tịch tịnh tạng, thanh tịnh vi diệu tạng, minh triệt tạng, là trần tạng, là thức tạng, là cấu tạng...
Lại nữa, không thể chấp trước vào cách thức trì niệm, vào nghi tắc lễ bái cúng dường, vào sự khẩn thiết xưng tán, sám hối hoặc tâm chí tùy hỷ công đức của hành giả niệm Phật mà cho rằng danh hiệu Nam-mô A-di-đà Phật là hữu sở y hay vô sở y. Vì sao vậy? Bởi vì danh hiệu ấy chính là khả ái nhạo tạng, là ly chủng chủng trần cấu tạng, là ly uẩn tạng, là vô chướng ngại tạng, là vô tận công đức tạng... vô tận thiện căn tạng, là niết bàn tạng, là như huyễn tam muội vô vi tạng, là thành tựu Phật độ tạng, là quyết định vô thượng bồ đề tạng, là Phổ-hiền bất tư nghị giải thoát tạng...”
Khi ngài Phổ-hiền Bồ-tát ở trước đức Như-lai mà tuyên thuyết ý nghĩa và công đức bất khả tư nghị của danh hiệu Phật rồi, đức Như-lai khen rằng: Lành thay! Lành thay!
Vô lượng vô biên Bồ-tát khắp mười phương chứng đắc Niệm Phật Tam Muội, và Quốc mẫu Vi-đề-hy cùng những vị trưởng lão trong đại chúng đều thân chứng Tín Giải Đà-ra-ni. Chư Thiên, Long, Quỷ, Thần đều thâm nhập Thiện Căn Đà-ra-ni, hớn hở vui mừng đồng chấp tay nhất tâm xưng niệm Nam-mô A-di-đà Phật.
Đời Tấn, ngài Tam Tạng Pháp sư Cưu-Ma-La-Thập dịch từ Phạn ra Hán
Hòa thượng Thích Thiền Tâm dịch từ Hán ra Việt
Phật thuyết Niệm Phật Ba-la-mật Kinh.