Sau khi thành đạo, Đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an trụ trong vắng lặng, là điều cao hơn cả!”.
Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
Trong vườn Lộc-giả, Ngài quay bánh xe pháp Tứ-Đế, độ cho năm vị đồng tu như Tôn giả KiềuTrần Như v.v..., chứng được đạo-quả.
Lại có các vị Tỳ-Khưu nói lên những điều ngờ vực (chưa hiểu) của mình, xin Phật chỉ dạy cho điều gì nên tiến và điều gì nên ngưng.
Đức Thế-Tôn dạy bảo, ai cũng đều khai-ngộ. Các vị chắp tay, kính vâng và thuận theo lời Ngài chỉ dạy.
CHƯƠNG THỨ NHẤT: XUẤT GIA, CHỨNG QUẢ
Phật dạy: “Từ-biệt người thân đi xuất-gia, nhận-thức được tâm, thấu suốt được cội gốc và hiểu rõ được pháp vô-vi, mới gọi là “Sa - môn”. Vị Sa - môn thường giữ hai trăm năm mươi giới, khi tiến, khi ngưng, đều ở trong niệm thanh tịnh và thực hành đạo hạnh của bốn chân đế, để thành bốn Thánh-quả như bậc A-La-Hán v.v...
A-La-Hán (Arahat) là vị tu-chứng có thể phi hành, biến hóa, kéo dài thọ mệnh nhiều kiếp và khi an trụ có thể làm rung chuyển trời đất.
Thứ đến, A-Na-Hàm (Angàmi). A-Na-Hàm là vị tu-chứng, sau khi mất, linh-thần sinh lên cõi trời thứ mười chín, chứng quả A -La-Hán.
Thứ đến, Tư-Đà-Hàm (Sakrdàgàmi). Tư-Đà-Hàm là vị tu chứng, chỉ còn một lần sinh lên cõi trời và một lần trở lại cõi người trong Dục-giới là chứng được quả A-La-Hán.
Thứ nữa là Tu-Đà-Hoàn (Sotàpanna-phala). Tu-Đà-Hoàn là vị tu-chứng còn phải bảy lần sinh, bảy lần tử nữa, mới chứng được quả A- La -Hán.
Chặt đứt ái-dục như chặt tứ chi, không dùng gì nữa, (tức là vượt khỏi luân-hồi)!”.
CHƯƠNG THỨ HAI: ĐOẠN DỤC TUYỆT CHỨNG
Phật dạy: “Bậc Sa-môn xuất-gia, dứt tham-dục, bỏ ái-nhiễm, biết nguồn tâm của mình, suốt lý sâu của Phật, ngộ pháp vô-vi; bên trong không có chỗ nào gọi là chứng đắc, bên ngoài không có chỗ nào gọi là cầu được; tâm không hệ thuộc với đạo và cũng không kết nghiệp, không suy niệm, không tạo tác, chẳng phải tu, chẳng phải chứng, không trải qua các quả vị mà tự thể nhập diệu quả cao thượng, đó gọi là “đạo”.
CHƯƠNG THỨ BA: CẮT ÁI BỎ THAM
Phật dạy: “Cắt bỏ râu tóc, làm bậc Sa-Môn lĩnh thụ đạo pháp, bỏ của cải thế gian, cầu xin lấy đủ: giữa ngày một bữa ăn, một giấc ngủ dưới gốc cây, và thận-trọng, không dám ham muốn đến hai lần. Vì, ái và dục làm cho người ta ngu-mê vậy”.
CHƯƠNG THỨ TƯ: THIỆN, ÁC ĐỀU RÕ
Phật dạy: “Chúng-sinh lấy mười việc làm thiện và, cũng lấy mười việc làm ác. Những gì là mười? - Thân ba việc. Miệng bốn việc. Ý ba việc. Ba việc của thân là: sát, đạo, dâm. Bốn việc của miệng là: hai lưỡi, ác khẩu, nói dối và nói thêu-dệt. Ba việc của ý là: tham, sân, si.
Mười việc như thế không thuận Thánh-đạo, gọi là mười hạnh ác. Việc ác ấy nếu ngưng chỉ, thì gọi là mười hạnh thiện”.
CHƯƠNG THỨ NĂM: CHUYỂN NẶNG THÀNH NHẸ
Phật dạy: “Người ta có những tội lỗi mà không biết tự hối, sớm dứt tâm tội lỗi ấy đi, thì tội lỗi sẽ tới mình, như nước chảy về biển, dần dần thành sâu rộng. Nếu người ta có tội-lỗi, tự biết là trái, đổi ác làm lành tội tự tiêu-diệt, như người đau, được mồ hôi xuất ra, dần dần được giảm bớt”.
CHƯƠNG THỨ SÁU: NHẪN ÁC KHÔNG GIẬN
Phật dạy: “Người ác nghe có người nào làm thiện, cố ý tới làm nhiễu loạn. Trường hợp ấy, ông nên tự ngăn cấm, không nên giận trách. Người kia đem điều ác tới, họ tự vời lấy điều ác”.
CHƯƠNG THỨ BẢY: ÁC LẠI BẢN THÂN
Phật dạy: “Có người nghe ta giữ đạo, làm việc rất nhân-từ, cố ý tới nhục mạ Phật. Phật im lặng không đối đáp. Người mạ nhục ấy ngưng, Đức Phật hỏi: “Ông đem lễ biếu người nào đó, người ấy không nhận, lễ ấy, ông đem về chứ?” Người kia đáp: “Tôi đem về!”.
Phật dạy: “Nay ông mạ-nhục tôi, tôi không nhận, ông tự mang lấy tai họa, nó quay về thân ông. Việc làm ấy, như vang ứng tiếng, bóng theo hình, hoàn toàn không tránh khỏi được. Vậy, cẩn-thận chớ làm điều ác”.
CHƯƠNG THỨ TÁM: TUNG, NHỔ TỰ NHƠ
Phật dạy: “Người ác hại người hiền, như ngửa mặt lên trời mà nhổ nước bọt, nhổ không đến trời, lại rớt xuống mình; ngược gió tung bụi, bụi không bay tới người kia, bụi cuộn lại mình. Người hiền không thể hủy hoại được mà tai họa quyết sẽ làm hoại diệt mình”.
CHƯƠNG THỨ CHÍN: VỀ GỐC GẶP ĐẠO
Phật dạy: “Yêu đạo bằng cách nghe nhiều thì đạo khó gặp được. Giữ chí bền chắc, vâng làm theo đạo, đạo ấy rất lớn”.
CHƯƠNG THỨ MƯỜI: HỶ THÍ ĐƯỢC PHÚC
Phật dạy: “Thấy người ta làm đạo bố thí, giúp đỡ người, ta hoan - hỷ, được phúc rất lớn”.
Có vị Sa-Môn hỏi Phật: “Bạch Thế-Tôn, phúc ấy có hết không?”
Phật dạy: “Như lửa của một bó đuốc, vài ngàn trăm người, đều đem đuốc đến lấy lửa, lấy về, nấu cơm chín, trừ nhà tối, mà lửa của bó đuốc ấy vẫn như cũ. Việc được phúc cũng thế”.
CHƯƠNG MƯỜI MỘT: CÚNG CƠM DẦN HƠN
Phật dạy: “Cho cơm một trăm người ác, không bằng đãi cơm một người thiện. Đãi cơm ngàn người thiện, không bằng đãi cơm một người giữ ngũ giới; đãi cơm vạn người giữ ngũ giới, không bằng cúng cơm một vị Tu-đà-hoàn; cúng cơm một trăm vạn vị Tu-đà-hoàn không bằng cúng cơm một vị Tư-đà - hàm; cúng cơm một ngàn vạn vị Tư-đà-hàm, không bằng cúng cơm một vị A -na- hàm; cúng cơm một ức vị A-na-hàm, không bằng cúng cơm một vị A-La-Hán; cúng cơm mười ức vị A-La-Hán, không bằng cúng cơm một vị Bích-chi-phật; cúng cơm trăm ức vị Bích-chi-phật, không bằng cúng cơm một vị trong tam thế chư Phật; cúng cơm ngàn ức vị trong tam thế chư Phật, không bằng cúng cơm một vị Vô-Niệm, Vô Trụ, Vô Tu, Vô Chứng”.
CHƯƠNG MƯỜI HAI: KHÓ, KHUYÊN GẮNG TU
Phật dạy: “Người ta có hai mươi việc khó: “Bần-cùng, bố-thí, khó. Sang - trọng, học đạo, khó. Bỏ mạng, quyết chết (cho chính-đạo), khó. Được thấy kinh Phật, khó. Sinh gặp đời Phật, khó. Nhẫn sắc, nhẫn dục, khó. Thấy tốt, không cầu, khó. Bị nhục, không giận, khó. Có thế không màng, khó. Chạm việc, vô tâm, khó. Học rộng, xét sâu, khó. Trừ-diệt ngã-mạn, khó. Không khinh người chưa học, khó. Tâm làm việc bình-đẳng, khó. Không nói thị-phi, khó. Gặp bậc thiện-tri-thức, khó. Học đạo, kiến tính, khó. Tùy căn-cơ mà hóa-độ người, khó. Thấy cảnh không động, khó. Khéo giải những phương tiện, khó.”
CHƯƠNG MƯỜI BA: HỎI VỀ TÚC-MỆNH
Có một vị Sa-Môn hỏi Phật: “Bạch Thế-Tôn bởi nhân-duyên gì mà biết được thân-mệnh của kiếp trước và biết được chí-đạo?”
Phật dạy: “Tâm trong-sạch, chí vững-bền có thể biết được chí đạo. Ví như, lau gương bụi sạch đi thì sáng còn lại. Dứt ham muốn, không tìm cầu, sẽ biết được than mệnh của kiếp trước”.
CHƯƠNG MƯỜI BỐN: HỎI VỀ THIỆN, ĐẠI
Có vị Sa-Môn hỏi Phật: “Bạch Thế-Tôn, gì là “thiện”? Gì là “tối đại” (rất lớn)?
Phật dạy: “Hành đạo, giữ được lẽ chân-thực là “thiện”, chí và đạo hợp là “đại”.
CHƯƠNG MƯỜI LĂM: HỎI VỀ LỰC, MINH
Có vị Sa-Môn hỏi Phật: “Bạch Thế-Tôn, gì là “đa lực” (nhiều nghị-lực)? Gì là “tối minh” (rất sáng)?
Phật dạy: “Nhẫn nhục đa lực (nhiều nghị lực), vì không ôm ấp những điều ác, có thêm sự an vui, khang kiện. Người chịu nhẫn-nhục, không làm điều ác, quyết được người ta tôn-kính. Tâm nhơ diệt hết, trong sạch không còn chút vết uế nhiễm, đó là “tối minh” (rất sáng). Kể từ khi chưa có trời đất cho đến ngày nay, những gì sở hữu trong mười phương, không có gì là không thấy, không có gì là không biết, không có gì là không nghe, được “nhất-thiết-trí”, đáng gọi là “minh” vậy.
CHƯƠNG MƯỜI SÁU: XẢ ÁI ĐẮC ĐẠO
Phật dạy: “Người ta ôm-ấp tâm ái-dục, sẽ không thấy được đạo. Ví như nước lắng, thò tay khuấy lên, mọi người tới xem, soi hình vào nước, đều không trông thấy bong dáng của mình. Người ta đem ái dục giao xen lẫn nhau, thì vẩn đục trong tâm nổi lên, nên không thấy được đạo. Sa-Môn các ông, nên bỏ ái dục. Cấu nhiễm của ái dục hết, thì đạo có thể thấy được”.
CHƯƠNG MƯỜI BẢY: SÁNG LẠI, TỐI RỜI
Phật dạy: “Người thấy được đạo, ví như người cầm bó đuốc vào trong nhà tối, bóng tối liền mất, mà chỉ còn có ánh sáng. Người học đạo thấy chân đế, vô minh liền diệt, mà chỉ “minh” (ánh sáng) thường còn”.
CHƯƠNG MƯỜI TÁM: NIỆM... VỐN KHÔNG
Phật dạy: “Giáo-pháp của ta, tuy niệm nhưng không chấp niệm, phi niệm, hành nhưng không chấp hành, phihành; ngôn nhưng không chấp ngôn, phi ngôn; Tu nhưng không chấp tu, phi tu. Người hiểu được thì được gần đạo, mà người mê thì bị xa đạo vậy! Đường ngôn ngữ dứt, không thể bị bó buộc bởi sự vật. Thế nhưng, sai đi hào ly thì mất đi trong giây lát”.
CHƯƠNG MƯỜI CHÍN: QUÁN GIẢ VÀ CHÂN
Phật dạy: “Xem trời đất, niệm phi thường, xem thế giới, niệm phi thường, quán tính linh giác tức là bồ đề. Hiểu biết như thế thì đắc đạo nhanh chóng vậy!”
CHƯƠNG HAI MƯƠI: CÁI TA VỐN KHÔNG
Phật dạy: “Nên nghĩ, bốn đại trong thân này, mỗi đại đều tự có cái tên, nhưng chúng đều không có cái TA. Cái TA đã không, thì chúng đều là như huyễn vậy”.
CHƯƠNG HĂM MỐT: THANH DANH HẠI MÌNH
Phật dạy: “Người ta hướng theo tình dục tìm cầu thanh danh. Thanh danh rực-rỡ thì thân đã tàn vậy! Tham lam cái danh thường của thế-gian mà không học đạo, thực là uổng công và mệt nhọc thân hình vậy! Ví như đốt hương, tuy người ngoài ngửi được mùi hương, nhưng hương thì tàn lụi! Ngọn lửa dục đem lại nguy hiểm cho thân, mà nhất là nghiệp quả sau này vậy!”
CHƯƠNG HĂM HAI: TÀI, SẮC VỜI KHỔ
Phật dạy: “Đối với người ta, tài và sắc không bỏ được, ví như lưỡi dao có mật, chút mật trên lưỡi dao, không đủ một bữa ăn ngon, nhưng tiểu nhi liếm vào thì có cái tai họa cắt lưỡi!”
CHƯƠNG HĂM BA: CÁI NGỤC VỢ CON
Phật dạy: “Người nào hệ-lụy vào vợ, con, nhà cửa, còn nặng hơn bị giam trong lao ngục. Lao ngục còn có khi được phóng-thích, nhưng vợ con không có ý niệm xa lìa được. Tình yêu đắm vào sắc dục như thế, há không sợ còn đeo đuổi mãi sao? Tuy tai họa như sa vào miệng hổ, nhưng lòng phải cố gắng cam chịu, nén dẹp, khi đã ham mê. Tự dìm ngập vào bùn nhơ là kẻ phàm-phu. Hiểu suốt được cửa ái dục ấy, để ra khỏi, là bậc La-Hán xuất trần!”
CHƯƠNG HĂM BỐN: SẮC DỤC CHƯỚNG ĐẠO
Phật dạy: “Về ái dục không có gì tệ hại hơn sắc dục. Sắc tạo ra sự ham muốn, và sự nguy-hiểm lớn lao của nó không có gì vượt ngoài nó được! May nó chỉ có một, nếu có cái thứ hai cũng như nó, thì khắp mọi người trong thiên hạ này không ai có thể tu tập theo đạo được!”
CHƯƠNG HĂM LĂM: LỬA DỤC ĐỐT MÌNH
Phật dạy: “Người ham đắm ái-dục, cũng như người cầm đuốc đi ngược chiều gió thổi, quyết-định sẽ xẩy ra tại-hoạn cháy tay”.
CHƯƠNG HĂM SÁU: THIÊN-MA QUẤY PHẬT
Thiên thần đem dâng ngọc nữ cho Phật, muốn làm suy hoại tâm ý Phật. Phật dạy: “Túi da bọc các đồ nhơ! Ngươi đến đây làm chi? Đi! Ta không dùng!”
Thiên-thần càng thêm cung kính và nhân đó hỏi về ý đạo. Đức Phật liền vì Thiên-thần ấy giải thuyết về đạo lý. Tức thì, Thiên-thần ấy chứng được quả Tu - Đà-Hoàn.
CHƯƠNG HĂM BẢY: KHÔNG CHẤP, ĐẮC ĐẠO
Phật dạy: “Người thực hành đạo cũng như cây gỗ trôi trên mặt nước, theo dòng nước mà đi, không chạm vào hai bên bờ, không bị người ta vớt lấy, không bị quỷ thần ngăn trở, không bị dòng nước xoáy đứng lại, cũng không bị mục nát. Được như thế, Ta bảo đảm cây gỗ ấy, quyết định vào được biển”.
“Người học đạo, không bị tình dục mê hoặc không bị mọi thứ bất chính quấy nhiễu, tinh tiến hướng theo đạo vô vi giải thoát, Ta bảo-đảm người ấy, quyết-định đắc-đạo vậy!”
CHƯƠNG HĂM TÁM: ĐỪNG BUÔNG Ý MÃ (ngăn ý)
Phật dạy: “Cẩn thận, đừng chủ quan tin vào tâm ý của ngươi. Ý của ngươi không thể tin được. Cẩn-thận, đừng gần sắc, hội-ngộ với sắc thì họa sinh. Khi chứng được quả A-La-Hán rồi, mới có thể tin được tâm ý của ngươi!”
CHƯƠNG HĂM CHÍN: CHÍNH-QUÁN NGĂN SẮC
Phật dạy: “Cẩn-thận, đừng trông nữ-sắc, và cũng không nên cùng trò chuyện. Nếu cùng nói chuyện, nên chính tâm nhớ nghĩ: “Ta là Sa - Môn, ở trong đời vẩn đục, phải như hoa sen không nhiễm bùn nhơ. Tưởng người già như mẹ, người lớn như chị, người trẻ như em và người nhỏ như con, mà sinh ra tâm độ thoát, liền diệt được ác niệm”.
CHƯƠNG BA MƯƠI: XA LÌA LỬA DỤC
Phật dạy: “Người thực hành đạo như mặc áo cỏ khô, lửa tới nên tránh. Người thực hành đạo thấy sắc-dục, quyết nên xa tránh!”
CHƯƠNG BĂM MỐT: TÂM VẲNG DỤC DIỆT
Phật dạy: “Có người lo ngại không ngưng được tâm dâm dục, muốn chặt đứt âm bộ của mình. Phật bảo người ấy rằng: “Nếu muốn chặt đứt âm bộ của mình, không bằng chặt đứt tâm của mình! Tâm như cơ-quan chỉ đạo các công việc, cơ-quan này ngưng công việc thì những người tùy tòng cũng đều nghỉ. Tâm tà không ngưng, thì chặt đứt âm bộ có ích gì?”
Đức Phật liền vì người ấy nói bài kệ rằng:
“Dục sinh ở ý ngươi,
Ý bởi tư tưởng sinh.
Hai tâm đều vẳng-lặng,
Chẳng sắc cũng chẳng hành”.
Đức Phật dạy tiếp: “Bài kệ ấy là do đức Phật Ca-Diếp nói ra!”
CHƯƠNG BĂM HAI: TA KHÔNG, SỢ DIỆT (Ngã không thì sợ hãi chấm dứt)
Phật dạy: “Người ta từ ái-dục sinh ra lo và từ ái-dục sinh ra sợ. Nếu lìa ái-dục, thì còn lo gì? sợ gì?”
CHƯƠNG BĂM BA: TRÍ SÁNG PHÁ MA
Phật dạy: “Người thực hành đạo, ví như một người chiến đấu cùng muôn người, mặc áo giáp ra ngoài cửa, ý hoặc khiếp nhược, hoặc nửa đường lui về, hoặc chống cự mà chết, hoặc thắng trận trở về. Sa-Môn học đạo, phải nên giữ vững tâm mình, tinh-tiến dũng nhuệ, không sợ cảnh trước mắt, phá diệt mọi ma, mà được đạo quả”.
CHƯƠNG BĂM BỐN: TRUNG BÌNH, ĐẮC ĐẠO (giữ trung dung tất đắc đạo)
Có vị Sa-Môn, ban đêm tụng kinh Di-Giáo của Đức Phật Ca - Diếp, tâm vị ấy có vẻ buồn-rầu hồi-hộp, suy nghĩ, phàn-nàn và muốn rút lui. Đức Phật hỏi vị ấy rằng: “Trước kia ông ở tại gia thường làm nghề gì?”
- Vị ấy đáp: “Con thích gảy đờn cầm.
- Đức Phật hỏi: “Dây đờn chùng thì sao?
- Vị ấy đáp: “Tiếng không kêu”.
- Đức Phật hỏi: “Dây đờn căng thì sao?”
- Vị ấy đáp: “Tiếng gắt vậy”.
- Dây đờn giữ được mức trung-bình, tức là không căng, không chùng thì sao?
- Vị ấy đáp: “Các tiếng của nó sẽ âm vang khắp vậy”.
Phật dạy: “Vị Sa-Môn học đạo cũng thế, nếu tâm điều-hợp, đạo có thể chứng được vậy. Đối với đạo, nếu quá hăng-hái, hăng-hái thì thân mệt; nếu thân mệt thì ý sinh não; nếu ý sinh não thì sự thực hành bị lùi; sự thực-hành đã lùi thì tội ắt sẽ thêm vậy. Chỉ giữ được thanh-tịnh, an-lạc, thì đạo mới không mất vậy”.
CHƯƠNG BĂM LĂM: NHƠ SẠCH, SÁNG CÒN
Phật dạy: “Như người rèn sắt, bỏ sét đi thì thành đồ vật, đồ vật tinh hảo. Người học đạo, bỏ tâm cấu nhiễm đi thì công hạnh liền thanh tịnh vậy”.
CHƯƠNG BĂM SÁU: MỞ MANG HƠN LÊN
Phật dạy: “Con người ra khỏi đường ác, được trở lại làm người là khó. Đã được làm người, bỏ thân nữ được thân nam là khó. Đã được làm thân nam, nhưng được sáu căn đầy đủ là khó. Được sáu căn đầy đủ, nhưng được sinh nơi trung quốc (vùng trung tâm đất nước) là khó. Được sinh nơi trung quốc, nhưng được gặp đời có Phật là khó. Được gặp đời có Phật, nhưng gặp được bậc Tu Đạo là khó. Đã gặp được đạo, nhưng khơi dậy được tín tâm là khó. Khơi dậy được tín tâm nhưng phát bồ-đề-tâm là khó. Phát được bồ-đề-tâm, nhưng đạt được bậc Vô-Tu, Vô Chứng là khó”.
CHƯƠNG BĂM BẢY: NIỆM GIỚI GẦN ĐẠO (nhớ nghĩ tới giới luật thì gần đạo)
Phật dậy: “Phật tử xa Ta vài ngàn dậm, nhưng nhớ nghĩ đến giới luật của Ta, Phật tử ấy quyết-định sẽ được đạo-quả. Phật-tử nào ở ngay bên tả bên hữu Ta, tuy thường thấy Ta, nhưng không thuận theo giới luật Ta dạy, cuối cùng cũng không được đạo quả gì”.
CHƯƠNG BĂM TÁM: CÓ SINH CÓ DIỆT
Đức Phật hỏi một vị Sa-Môn: “Mệnh người ta sống trong khoảng bao lâu?”
- Vị ấy thưa: “Trong khoảng vài ngày”.
- Phật dạy: “Ông chưa biết đạo”. Ngài lại hỏi một vị Sa-Môn khác: “Mệnh người ta sống trong khoảng bao lâu?”
- Vị ấy thưa: “Vào khoảng một bữa ăn”.
- Phật dạy: “Ông chưa biết đạo”. Ngài lại hỏi một vị Sa-Môn khác: “Mệnh người ta sống trong khoảng bao lâu?”
- Vị ấy thưa: “Trong khoảng hô-hấp”. (trong một hơi thở)
- Phật dạy: “Hay thay, ông biết đạo vậy”.
CHƯƠNG BĂM CHÍN: DẠY BẢO KHÔNG SAI<br />
Phật dạy: “Người học đạo Phật, đức Phật nói điều gì, đều nên tin thuận. Ví như ăn mật, ăn ở giữa hay ở bên cũng đều ngọt. Kinh của Ta nói ra cũng như thế!”.
CHƯƠNG BỐN MƯƠI: HÀNH ĐẠO TẠI TÂM
Phật dạy: “Vị Sa-Môn thực hành đạo, đừng nên làm như con trâu kéo cối đá. Thân tuy hành đạo, nhưng tâm đạo không hành. Tâm đạo nếu hành, thì dùng hành đạo làm gì!”
CHƯƠNG BỐN MƯƠI MỐT: TRỰC TÂM XUẤT DỤC (ngay thẳng dứt trừ dục vọng)
Phật dạy: “Người thực hành đạo, ví như con trâu mang đồ nặng, lại đi vào chỗ bùn sâu rất mệt nên không dám ngoái trông bên tả, bên hữu, chờ khi đi ra khỏi đám bùn lầy, mới có thể nghỉ ngơi. Vị Sa-Môn nên quán sát tình dục, còn tệ hơn bùn lầy. Trực tâm niệm đạo, được khỏi khổ vậy”.
CHƯƠNG BỐN HAI: SUỐT SỰ BIẾT HUYỄN (Hiểu được cõi đời là hư huyễn)
Phật dạy: “Ta coi ngôi vị vương, hầu như hạt bụi qua kẽ hở; coi của báu vàng ngọc như ngói, sỏi; coi trang phục lụa nõn như giẻ rách; coi cõi đại thiên như một hạt ha-tư; coi nước ao A-nậu như giọt dầu thoa chân; coi môn phương tiện như đống hóa bảo (đống châu báu hóa hiện); coi vô-thượng thừa như mơ thấy vàng, lụa; coi Phật đạo như bông hoa trước mắt; coi thiền định như cột núi Tu-Di; coi niết bàn như cơn tỉnh ngủ ban ngày; coi sự xoay, thẳng như sáu con rồng múa; coi lý bình đẳng như nơi nhất chân pháp giới (chân địa); coi sự hưng hóa như cây bốn mùa”.
Hán dịch: Ca-Diếp Ma-Đằng và Trúc-Pháp Lan đời Hậu-Hán đồng dịch.
Việt-dịch: Thích Tâm Châu