Luật tạng là một trong ba tạng giáo điển của Phật giáo, và giới luật đóng một vai trò hết sức quan trọng trong sự duy trì cũng như sự phát triển giáo đoàn Phật giáo trong suốt hơn hai nghìn năm trăm năm qua.
Điều này đã được khẳng định bằng chính lời của Đức Thế Tôn khi Ngài trả lời tôn giả A Nan về câu hỏi rằng : “Sau khi như lai diệt độ chúng con biết nương tựa vào đâu và thờ ai làm thầy ?” Lúc ấy Đức Thế Tôn đã ôn tồn mà nói cùng đại chúng: “Này A Nan! sau khi ta diệt độ các ông hãy nương tựa vào chính mình và hãy lấy giới luật làm thầy.” Lời phó chúc ấy hẳn là một minh chứng hùng hồn khẳng định tính trọng yếu của giới luật đối với sự tồn vong của đạo pháp.
Bất cứ một đoàn thể hay một tổ chức nào muốn tồn tại và phát triển thì cũng cần phải có nội quy và điều luật riêng của nó. Phật giáo cũng không ngoài quy luật ấy.
Như chúng ta biết, sau khi thành lập giáo đoàn, trong suốt mười hai năm đầu đức Phật chưa chế định giới luật. Các tỳ kheo lúc ấy chỉ tu tập bằng cách truyền dạy trực tiếp từ kim khẩu của Đức Thế Tôn và chủ yếu là tu tập định cộng giới và đạo cộng giới. Bởi vì, trong những năm đầu tiên này, giáo đoàn phần lớn là những bậc căn cơ cao, một lòng tu tập tiến đến giải thoát và đa phần đều đã chứng quả.
Nhưng đến năm thứ mười ba, thì pháp hữu lậu bắt đầu phát sinh trong giáo đoàn. Sự thanh tịnh của tăng không còn được bảo đảm một cách toàn vẹn. Vì vậy, giới luật được chế định trong lúc này là một điều tối cần thiết để bảo hộ cho sự thanh tịnh của tăng đồng thời để bảo đảm cho một hành giả trên lộ trình tu tập đoạn trừ dục lạc tiến đến con đường thoát ly sinh tử.
Giới luật Phật giáo được chế định với ba mục đích chính: thứ nhất là ngăn chặn những điều gì làm ngăn trở con đường thánh đạo. Trong giáo đoàn, nếu có bất cứ một điều gì xảy ra mà nó gây tác hại cho hành giả trên phương diện tu chứng, hay thiền định thì đức Phật đều chế giới.
Việc chế giới này được đức Thế Tôn thực hiện theo tinh thần “tùy phạm tùy chế”. Nghĩa là có một pháp hữu lậu phát sinh gây bất lợi cho chính bản thân hành giả và cho tăng thân thì Phật mới chế giới. Đức Phật không bao giờ chế định những điều gì mà nó chưa hề xảy ra trong cộng đồng các tỳ khiêu. Đức Phật hoàn toàn không đem giới luật để áp đặt cho đệ tử của Ngài.
Điều thứ hai khiến Đức Thế Tôn chế giới chính là những gì làm ảnh hưởng gây sự xáo trộn trong sinh hoạt của Tăng đoàn. Bởi vì, bản thể của tăng là thanh tịnh hoà hợp. Sự thanh tịnh hoà hợp này chính là sức sống, là huyết mạch để quyết định sự tồn vong của tăng đoàn. Có duy trì đựơc một tăng đoàn hoà hợp, thanh tịnh thì đó mới xứng đáng là hàng tăng bảo làm chỗ quy ngưỡng vững chắc, tôn kính cho hàng tại gia cư sĩ.
Một giáo đoàn nếu chỉ gồm những tỳ kheo ham mê dục lạc, đua đòi theo kẻ thế tục, làm những điều không nên làm, không màng đến sự chê bai của thế gian, thì chắc hẳn giáo đoàn đó sẽ không thể tồn tại lâu dài. Điều ấy không những làm mất sự tín tâm của người đời đối với Phật pháp mà còn nhanh chóng đưa Phật giáo đến chỗ hoại diệt. Chính vì vậy, mục đích thứ ba mà Đức Thế Tôn chế định giới luật là tránh sự cơ hiềm của người thế tục. Tránh sự cơ hiềm ấy chính là để bảo đảm cho sự thanh tịnh và hoà hợp của tăng đoàn.
Giới luật mà Đức Phật chế định ra cho hàng đê tử thọ trì là hoàn toàn dựa trên tinh thần tự nguyện, không hề ép buộc và tuyệt đối không áp đặt cho một cá nhân nào. Ai thọ trì thì người ấy được lợi ích. Bởi vì công năng của giới luật chính là “phòng phi chỉ ác” , giúp cho hành giả tránh được mọi hố hầm của tội lỗi thẳng tiến đến bờ giải thoát giác ngộ. Trong đó nếu vị nào thọ trì thì đều có được những lợi ích sau đây:
1. Nhiếp thủ ư tăng: Vì kiện toàn tăng già thành chúng thanh tịnh.
2. Linh tăng hoan hỷ : Vì tu hành phạm hạnh nên thiện tâm tăng trưởng khiến được hoan hỷ với nhau.
3. Linh tăng an lạc : Khiến cho tăng được an lạc.
4. Linh vị tín giả tín : Khiến cho người chưa tin được tin.
5. Dĩ tín giả linh tăng trưởng : Đối những người đã tin khiến cho lòng tin họ thêm tăng trưởng.
6. Nan điều giả linh điều : Người khó điều phục khiến họ được điều phục.
7. Tàm quý giả đức an lạc: Khiến ngưòi biết hổ thẹn được an vui.
8. Đoạn hiện tại hữu lậu : Đoạn hết phiền não ở hiện tại.
9. Đoan vị lai hữu lậu : Đoạn trừ phiền não trong tương lai.
10. Linh chánh pháp cửu trụ : Làm cho chánh pháp tồn tại lâu dài.
Có được những lợi ích này thông qua việc tu tập giới, chính là do giới luật được thiết lập trên hai nền tảng căn bản. Đó là từ bi và trí tuệ. Từ bi và trí tuệ chẳng những là nền tảng căn bản của giới luật mà còn là nền tảng căn bản cho toàn bộ tam tạng giáo điển của phật giáo.
Chúng ta biết rằng toàn bộ giới luật Phật giáo được chế định trên thất chi của thập ác nghiệp. Do vì ác pháp phát sinh nên giới luật được chế định để phòng hộ cho chính bản thân hành giả cũng như mang lại sự an bình cho tha nhân. Chẳng hạn như chúng ta giữ giới không sát sinh thì bản thân người trì giới đoạn trừ được sân tâm, tăng trưởng lòng từ bi, tránh được những tội lỗi và nghiệp quả do nghiệp sát gây ra. Tha nhân cũng như các loài khác đều được an ổn, sống trong sự bình yên không sợ hãi. Bằng trí tuệ cao siêu Đức Phật thấy rõ được giới nào có thể đem lại cho người tu tập sự an lạc, lợi ích và có thể dẫn đến con đường giải thoát tối hậu, đồng thời không trói buộc hay ngăn trở thánh đạo. Không như giới điều của ngoại đạo mê chấp sai lầm, không mang lại lợi ích cho con đường tu tập giác ngộ giải thoát.
Mục đích của giới luật là đem lại lợi ích, an lạc cho mình và người, nên giúp cho người tu tập đạt được an lạc trong từng bước đi. Giới luật được hiểu đúng nghĩa không phải là những giới điều trói buộc, gây phiền phức cho người thọ trì giới, mà giới luật Phật giáo rất linh động uyển chuyển tuỳ theo mỗi hoàn cảnh quốc độ, tuỳ theo từng không gian và thời gian mà thay đổi ít nhiều để phù hợp và thích nghi. Bằng chứng là trong 250 giới của tỳ kheo có chia làm năm thiên thất tụ, tiêu biểu cho những mức độ khinh trọng khác nhau. Trong những điều giới đó lại có sự khai mở cho những trường hợp đặc biệt khi phạm phải thì không mắc tội.
Đơn cử như giới “không được đứng tiểu tiện” . Vì hàng cư sĩ và ngoại đạo chê trách rằng đệ tử của sa môn Cồ Đàm đều là những người thô tháo, thiếu lịch nhã, nên Phật cấm không cho đệ tử đứng tiểu tiện. Nhưng khi các tỳ kheo đến một quốc độ khác giáo hoá thì họ cho rằng sa môn Thích tử giống như đàn bà ngồi mà tiểu tiện không có tướng trượng phu. Lúc đó đức Phật lại cho phép các tỳ kheo đứng tiểu tiện. Những điều như thế được ghi chép rất nhiều trong luật tạng.
Như vậy, ta thấy rằng giới luật Phật giáo đâu phải chỉ là những giới điều cứng nhắc, cố chấp mà rất uyển chuyển, như chính lời của Đức Thế Tôn đã xác minh trong Ngũ Phần Luật: “ Phật dạy : tuy là điều giới ta chế, nhưng phương khác chẳng cho là thanh tịnh thì đều chẳng nên dùng. Tuy chẳng phải điều ta chế, nhưng phương khác cần phải làm thì chẳng nên không làm”. Vậy thì, giới luật trong giáo lý Phật giáo không phải là những điều cố chấp, cứng nhắc mà hoàn toàn dựa trên tinh thần tự nguyện, thiết thực đem lại lợi ích cho mình và tha nhân.
Giới luật từ khởi thuỷ được chế định chung cho tất cả những ai muốn tu tập theo hạnh giải thoát. Bất cứ một đối tượng nào nếu đủ điều kiện thoát ly sự ràng buộc của gia đình gia nhập tăng đoàn đều phải tuân theo. Bởi giới luật là một điều kiện trọng yếu để bảo trì giới thể cho một tỳ kheo như pháp. Nếu không thọ trì giới luật một cách nghiêm mật thì bản thể thanh tịnh của một tỳ kheo khó có thể được bảo toàn.
Chính vì vậy, trách nhiệm học giới và tu tập giới là bổn phận của mỗi một tỳ khiêu. Do đó, giới luật không phải là một bộ môn học hay một tông phái riêng biệt mà ai thích thì theo. Vì rằng điều kiện để trở thành một tỳ kheo như pháp là bạch tứ yết ma và thọ trì giới pháp. Vô tác giới thể của một tỳ kheo được thành tựu là do bạch tứ yết ma, nhưng để giữ gìn được bản thể thanh tịnh đó lại là công năng của giới. Chúng ta không thể trở thành một tỳ kheo như pháp nếu không nghiêm trì giới luật.
Trên con đường tiến đến đạo quả bồ đề, giới luật đóng một vai trò hết sức quan trọng nếu không muốn nói là yếu tố quyết định. Đó chính là nền tảng, là giềng mối cho sự tu tập tiến đến giác ngộ giải thoát. Tính trọng yếu của giới luật một lần nữa lại được xác quyết và khẳng định bằng bài kệ:
“Dục tu vô thượng bồ đề
Tiên tắc nghiêm trì giới luật
Giới luật nhược bất nghiêm trì
Bồ đề chung bất thành tựu”
Mỗi một tăng sĩ chúng ta hãy tinh tiến nỗ lực tu tập, hành trì giới luật để tự thăng hoa đời sống của chính mình và cũng là để kiện toàn một tăng đoàn thanh tịnh hoà hợp ngõ hầu duy trì mạng mạch Phật pháp.
Tuệ Hải - Thích Quảng Văn
phattuvietnam.net